Nhiều người nghĩ “sẽ chống trả đến cùng khi” bị tấn công tình dục, nhưng thực tế nhiều nạn nhân do hoảng loạn, sợ hãi đã không thể làm vậy, mà trong trạng thái “như chết cứng”.

Từng bị cưỡng bức thời trung học tại trường, Amy, 28 tuổi, chia sẻ: “Tôi luôn nói rằng: Nếu một gã đàn ông dám làm điều đó với tôi, tôi sẽ đá vào chỗ hiểm của gã rồi bỏ chạy”. Nhưng trong thực tế, nỗi sợ hãi lấn át và bạn cảm thấy bất lực, như chết cứng”.”Hầu hết mọi người đã nghe nói về ‘chiến đấu hay bỏ chạy’ nhưng chưa thực sự nghe nói về phản ứng phổ biến là ‘đóng băng'”, Noel McDermott, nhà trị liệu tâm lý với nhiều năm kinh nghiệm điều trị cho những khách hàng từng bị tổn thương, cho hay.Ông McDermott cho biết cả ba phản ứng này đều được điều khiển bởi một phần não gọi là hạch hạnh nhân (amygdala) trong hệ thống limbic – một nhóm cấu trúc liên kết nằm sâu trong não bộ, có nhiệm vụ kiểm soát cảm xúc và hành vi của con người. Phần não này đưa ra quyết định sử dụng chiến lược nào, độc lập với ý muốn. Theo nghĩa đen, nó đảm nhận chức năng điều hành việc ra quyết định, ghi nhớ, chuyển động và hơn thế nữa.

Theo ông McDermott, phản ứng đóng băng phát triển như một cơ chế sinh tồn vì hai lý do chính. Thứ nhất, việc đóng băng khiến con mồi trở nên vô hình trước nhiều kẻ săn mồi có mắt nhạy bén với chuyển động hơn là hình dạng hoặc màu sắc. Thứ hai, con mồi “giả chết” thường được thả vì thú ăn thịt hầu hết không phải kẻ ăn xác thối.

“Rõ ràng kẻ hiếp dâm không phải là một con sư tử đang cố ăn thịt chúng ta, tại sao lại chọn ‘giả chết’? Chủ yếu là do hạch hạnh nhân không có ý thức nên nó đưa ra quyết định dựa trên mức độ hormone căng thẳng. Nó được kích hoạt khi những hormone căng thẳng đó – chúng tôi gọi là nỗi sợ hãi – đạt đến mức đủ cao. Sau đó, nó sẽ đảm nhận việc ra quyết định từ các bộ phận điều hành trong não của chúng ta. Trước nỗi kinh hoàng như bị hãm hiếp, đóng băng là phản ứng phổ biến hơn chiến đấu hay bỏ chạy”, ông McDermott nói.

Nhiều tài liệu khoa học, nghiên cứu và chuyên gia ủng hộ lời giải thích của Noel McDermott về phản ứng đóng băng. Cơ quan công tố Hoàng Gia Anh (CPS) đã liệt kê và giải thích phản ứng này trong hướng dẫn chính thức dành cho thẩm phán và công tố viên trong các vụ án hiếp dâm.

Tuy nhiên, trong trường hợp của Amy, điều này hầu như không ngăn được những câu chất vấn được đưa ra trong phòng xử án.

“Dữ liệu từ camera giám sát cho thấy hắn nhốt tôi trong lớp học và cố gắng nhét tiền vào áo đồng phục của tôi để khiến tôi im lặng. Bên bào chữa muốn biết tại sao tôi không mở khóa cửa và không cố gắng trốn thoát. Đó không phải là điều bạn có thể nghĩ tới trong tình huống như vậy, tôi đã rất hoảng sợ. Bị hỏi điều đó khiến tôi cảm thấy tức giận, bị coi thường và nhục nhã, như thể tôi có thể ngăn việc xảy ra bằng cách nào đó”, Amy nói.

Bất chấp các video, câu hỏi đã gây ra sự không chắc chắn đủ lớn trong bồi thẩm đoàn để khiến kẻ tấn công Amy được tuyên vô tội theo nguyên tắc “nghi ngờ hợp lý”.

Vụ án của Amy là một trong những minh chứng cho lầm tưởng lớn nhất về hiếp dâm là việc không chống trả kẻ tấn công hay cố gắng chạy trốn được coi như dấu hiệu đồng thuận. Quan niệm này đã tồn tại dai dẳng hàng thế kỷ như một cách thẩm vấn hiệu quả cho các luật sư bào chữa trước tòa và trở thành công cụ dễ dàng để thao túng bồi thẩm đoàn.

“Nhiều người nghĩ: ‘Nếu là tôi, tôi sẽ chống trả khi bị tấn công, vậy tại sao cô ấy lại không? Nhưng trong trạng thái lạnh, khi chúng ta bình tĩnh, lý trí và không gặp bất kỳ nguy hiểm nào, thật khó để tưởng tượng chúng ta sẽ làm gì trong trạng thái nóng – những tình huống kích động và căng thẳng”, Giáo sư Paul Dolan, nhà tâm lý học hành vi tại Học viện Kinh tế và Chính trị London, cho biết.

Định kiến này tiếp tục được các luật sư đại diện cho “trùm Hollywood” Harvey Weinstein lôi ra trong vụ kiện lạm dụng tình dục kéo dài từ năm 2017. Họ hỏi tại sao các nạn nhân không cố gắng trốn thoát khỏi phòng khách sạn, thậm chí còn ám chỉ rằng nạn nhân đồng thuận với cuộc tấn công bằng cách vào phòng của ông ta.

Năm 2020, một thẩm phán tòa án gia đình ở Sheffield, Anh, gây phẫn nộ khi hai lần ra phán quyết rằng nạn nhân không bị cưỡng hiếp vì họ không thực hiện các bước để ngăn chặn kẻ tấn công mình. Thẩm phán Robin Tolson phải đối mặt với những lời kêu gọi từ chức từ các đồng nghiệp, các nhà hoạt động và nghị sĩ, vụ án của ông ta phải xét xử lại.

Đại diện của Trung tâm trợ giúp nạn nhân bị hiếp dâm ở North London kể về một nạn nhân nhỏ tuổi đã bị sốc khi người bào chữa hỏi tại sao không khóa cửa phòng ngủ để ngăn kẻ lạm dụng. Trong phiên tòa khác, một nạn nhân dưới 12 tuổi bị lạm dụng nhận được câu hỏi tại sao không la hét hay gọi ai đó. Khi cô bé nói sợ hãi và cứng đờ, người bào chữa chỉ ra rằng đôi khi cô bé đánh nhau ở trường, vậy tại sao không biết tự vệ?

Tủi nhục và tái chấn thương là những tác dụng phụ thường gặp đối với nạn nhân khi bị luật sư bào chữa hạ bệ uy tín, làm chậm đáng kể quá trình hồi phục của họ và gây thêm tổn thương tâm lý.

Bất chấp những tổn hại chưa kể xiết gây ra cho nạn nhân khi sử dụng định kiến sai lầm về hiếp dâm như một biện pháp bào chữa và bất chấp các hướng dẫn hiện có, không ai ngăn chặn điều này, thẩm phán hay bên công tố không bao giờ phản đối câu hỏi đó.

Harriet Wistrich, luật sư kiêm giám đốc Trung Tâm Công lý cho Phụ nữ, cùng với Liên minh Chấm dứt Bạo lực đối với Phụ nữ (EVAW) đang tích cực vận động để thay đổi thực trạng. Họ cho biết chính phủ sẽ tiến hành đánh giá các vụ hiếp dâm để xem xét những gì xảy ra trong phòng xử án và những gì cần được cải thiện.
Tuệ Anh